NHỮNG THÁCH THỨC VÀ NHU CẦU
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Trần Mỹ Duyệt
Nếu bạn hỏi một
em bé khoảng 5 tuổi trở lên “Lớn lên em sẽ làm gì?” Câu trả lời
tùy vào ảnh hưởng gia đình, ảnh hưởng môi trường và học đường.
Các em nhỏ ở Mỹ trước đây thường thích lớn lên làm cảnh sát, lính
chữa lửa. Nhưng sở thích đó giờ đây đang thay đổi theo đà
phát triển của xã hội, khoa học. Bây giờ có em thích làm cô
giáo, phi công, phi hành gia, khoa học gia, bác sỹ, y tá, nha
sỹ, dược sỹ, luật sỹ hoặc bác sỹ thú y…Tóm lại, những hình ảnh
về một nghề trong tương lai của các em không phản ảnh quan niệm
trước đây là con cái thường theo gót của cha mẹ.
Nhưng có tới 75%
bậc phụ huynh thì muốn rằng con mình sau này sẽ học và có một
nghề trong lãnh vực STEM (Science -Khoa học, Technology - Kỹ
thuật, Engineering - Kỹ sư, và Mathematics - Toán học). Lý do vì
những chuyên môn này sẽ dẫn đến những ngành nghề liên quan đến
khoa học, phát minh, y tế, và sự phát triển của nhân loại.
Còn lại, khoảng
50% cha mẹ thì cho rằng con cái muốn làm gì là tùy sở thích và
khả năng của chúng. [1]
Nếu ở tuổi 5
tuổi trẻ lên, các em bắt đầu chú ý đến những việc làm sau này
các em thích, dựa trên sự ưa thích cá nhân, và cảm tình. Nhưng
phải chờ đến khoảng 15, 16 hoặc 18 tuổi, đa số các em mới có một
cái nhìn rõ ràng về tương lai của mình. Rõ ràng nhất là tuổi 15,
khi các em bắt đầu phát triển những sở thích và tài năng thích
hợp với một ngành nghề trong tương lai. Tuy nhiên, ở một số em
việc chọn lựa một ngành nghề vẫn gặp khó khăn. Có những trường
hợp “nghề chọn mình, chứ không phải mình chọn nghề”. Và đó cũng
là lý do nhiều người đã phải thay đổi nghề nghiệp đến 2 hoặc 3
lần.
Nhưng dù con em
muốn học ngành gì, phụ huynh muốn con mình sau này sẽ trở thành
như thế nào, cái đó không nhất thiết quan trọng. Là một bác sỹ,
nha sỹ, dược sỹ, tiến sỹ, luật sỹ, kỹ sư, giáo sư… như như thế
nào mới quan trọng. Và đây là cái mà cha mẹ phải chuẩn bị cho
các con ngay từ khi chúng còn đang trong vòng tay ấm của gia
đình.
Nhưng dậy
những gì?
“Dậy con từ thuở
lên ba” (Ca dao tục ngữ).
Theo quan niệm
giáo dục, và theo truyền thống giáo dục từ xưa, những đứa trẻ
trong các gia đình cần được dậy cho biết lễ nghĩa, luân thường,
đạo đức. Theo Ca dao tục ngữ Việt Nam là: “Học ăn, học nói, học
gói, học mở”, và “Tiên học lễ, hậu học văn”. Như vậy, quan niệm
của xã hội xưa thì đàn ông, con trai phải lấy chữ trung làm đầu,
đàn bà, con gái thì phải quyết giữ tiết hạnh. Một truyền thống
giáo dục quý báu của dân tộc mà ngàn đời cha ông đã truyền lại
cho con cháu. Mở đầu tác phẩm nổi tiếng Lục Vân Tiên, Nguyễn
Đình Chiểu đã viết hai câu thơ: “Trai thời trung hiếu làm đầu.
Gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình.” [2]
Đọc qua những
đòi hỏi đạo đức trên tưởng chừng như cha ông mình ngày xưa cổ
hủ, lạc hậu và quá chú trọng vào hình thức, lễ nghĩa. Nhưng thực
ra, nếu đem so sánh những kinh nghiệm trên với cái nhìn của khoa
tâm lý giáo dục ngày nay thì không những không lạc hậu, bi quan
mà còn là một điều hết sức cần thiết.
Tuổi trẻ ngày
nay đi hoang, sa đọa và coi thường giá trị căn bản của đời sống.
Đời sống hôm nay như mất ý nghĩa và vô vọng. Giầu sang có, xe
hơi có, nhà lầu có, những tiện nghi của khoa học hiện đại có,
nhưng lòng người thì vô tâm, vô cảm, buồn phiền và chán ngán.
Hoang đàng, vung vít trong tình yêu. Lẫn lộn yêu với đam mê, dục
vọng. Lẫn lộn danh dự với danh giá hão huyền. Lẫn lộn giầu sang
với bon chen, chộp giật và mánh mung. Hậu quả dẫn tới coi thường
hôn nhân, ly thân, ly dị như thay đổi áo quần. Yêu nhau đồng
tính, hôn nhân đồng tính. Nhân phẩm và mạng sống bị coi thường.
Sau một thời gian dài ngừa thai, giờ thì phá thai được công khai
và luật pháp hóa. Tất cả là kết quả của một nền “văn minh sự
chết” (St. Gioan Phaolô II), của một nền luân lý tương đối
(Moral realism).
Mục đích của
giáo dục hiện nay
Nhìn vào chương
trình học hiện nay, có thể nói rằng những môn học cùng với việc
giảng dậy có căn bản từ những công trình nghiên cứu bởi các
chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục. Nhưng một điều xem như rõ
ràng là mục tiêu của nền giáo dục này là để trao cho học sinh,
sinh viên những kiến thức, những kỹ năng cần để họ có thể phát
triển hết tiềm năng của mình.
Theo Barbara
Danza, tác giả của các bài viết giá trị chú trọng đến những
thách thức và hoàn cảnh nuôi dạy con trong thời hiện đại, và
những chủ đề liên quan đến lựa chọn giáo dục gia đình, thì ngay
từ nhỏ, các em cần được giáo dục về:
Giao tiếp:
Với truyền thống văn hóa cởi mở, tôn trọng phẩm giá con người
tại các nước Tây Phương, thì đây là điều mà phụ huynh cần phải
dậy con em mình ngay khi chúng còn trên gối mẹ. Điều này dễ hiểu
và dễ phân biệt khi một em bé Việt Nam đứng bên một em bé Mỹ hay
Pháp. Cách nói năng, biểu lộ tình cảm hoàn toàn khác nhau. Một
bên khúm núm, sợ hãi, rụt rè, tự ty, còn một bên cởi mở, thoải
mái, và tự tin.
Đây là điều mà
nền giáo dục Việt Nam, cũng như các cha mẹ Việt Nam cần một cái
nhìn nhân bản dựa trên giá trị của con người khi theo dõi, và
hướng dẫn các em từ lúc gửi đi vườn trẻ, cũng như tiếp tục sau
này khi các em bước vào trung học. Một em bé ngoan, lễ phép,
lịch sự không có nghĩa là phải cúi đầu, khép nép, và không được
nhìn thẳng vào cha mẹ, người lớn khi nói năng, trao đổi.
Suy luận:
Một trong những lợi ích của việc học toán, ngoài những ứng dụng
thực tế đối với những ai sẽ theo đuổi về kỹ thuật, khoa học, và
ngoài những ứng dụng trong việc hoạch định tài chính, môn toán
dạy ta cách lý luận. Suy nghĩ có luận lý (logic) sẽ giúp các em
khi lớn lên biết phân tích và định giá các công việc, giải quyết
các vấn đề.
Tại Hoa Kỳ hay
tại những quốc gia tiên tiến Tây Phương, ngoài khả năng luận lý
trong toán học, phân tích mọi chuyện, các em nhỏ còn được dậy
cách trực diện và đặt những vấn đề với cha mẹ khi ở nhà. Lý luận
học còn dậy các em biết xem xét những lập luận, những quan điểm
trên phương diện lý tính, vì thế, trẻ em có thể sử dụng những
yếu tố mang tính ngụy biện và đặt những giả thiết. Một con dao
hai lưỡi, đó cũng là lý do mà phụ huynh cần phải chuẩn bị để
không cảm thấy ngỡ ngàng, hoặc bị xúc phạm khi con cái mình có
những thái độ thẳng thắn, thực tế khi nói chuyện, trao đổi về
những vấn đề trong cuộc sống.
Lịch sử:
“Lịch sử hay sử học (gọi tắt là sử) là môn khoa học nghiên cứu
về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người.
Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá
khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình
bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này.” [3]
Lịch sử sử quốc
gia, lịch sử thế giới sẽ giúp con người sống với niềm tự hào về
văn hóa, truyền thống, và phong tục của mình. Nhưng lịch sử cũng
rất dễ biến thành ngụy sử. Nhiều sử gia nghiên cứu và viết sử
với ảnh hưởng chính trị, khuynh tả, hoặc khuynh hữu nhằm bênh
vực, ngụy tạo, và hướng dẫn người đọc. Quan niệm về thế giới đại
đồng, một trật tự thế giới mới đang làm cho cái nhìn về lịch sử
trở nên méo mó, sai lạc. Các bậc cha mẹ, phụ huynh phải quan tâm
đến những điều này khi giải thích lịch sử cho con cái.
Nghệ thuật:
Các nền văn minh khác nhau trên khắp thế giới đã mang lại những
thành quả về văn hóa rất đáng ghi nhận. Cảm quan về thẩm mỹ, vẻ
đẹp, thiên nhiên, và con người là thứ mà các em có thể cảm nhận
được qua những môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, kiến trúc,
âm nhạc, kịch nghệ, khiêu vũ, văn học, thơ ca hay bất kỳ hình
thức biểu đạt nghệ thuật nào khác. Bổn phận cha mẹ là khám phá
và khuyến khích con cái phát triển những tài năng ấy. Một số có
thể là nghề nghiệp sau này, và một số sẽ góp phần làm đẹp cho
đời khi các em lớn lên.
Phát triển
tiềm năng:
Tại trường học, mỗi học sinh đều có những ưu điểm riêng biệt,
những tài năng thiên phú của chính mình. Các em cần được khuyến
khích phát huy những tiềm năng này. Cho dù một cá nhân có mang
trong mình tố chất của một văn nhân, một khoa học gia, một nghệ
sĩ, một luật sư, một giáo viên, một giám đốc, một người thợ thủ
công hay thợ sửa ống nước, thì tiềm năng của mỗi người đều phải
nên được phát huy tối đa và tôn trọng.
Phẩm chất đạo
đức:
Ca dao Việt Nam có câu: “Tiên học lễ hậu học văn.” Đây là truyền
thống giáo dục đặc biệt và nổi vượt nhất của người Việt phù hợp
với tâm lý giáo dục và tâm lý phát triển. Song song với việc
truyền tải những giá trị về kiến thức, tài năng, thì đạo đức học
là một phần rất quan trọng trong sứ mạng giáo dục. Nhờ đạo đức,
con người mới có được khả năng phân định tốt xấu, để rồi có thể
đứng về lẽ phải, biết cất lên tiếng nói công đạo, và sống đời
liêm chính.
Rất tiếc ngày
nay tại các học đường đang dần dần loại bỏ hoặc coi nhẹ chương
trình đạo đức. Do đó, cha mẹ và phụ huynh không thể khoán trắng
cho nhà trường về tư cách đạo đức của con mình, nhưng phải quan
tâm dậy dỗ chúng từ trong gia đình. Có thể không quá đáng khi
nhấn mạnh đến giá trị và thành quả của đạo đức khi nói: “Có đức
mặc sức mà ăn.” Nhưng với trào lưu sống hiện nay đang nghiêng về
những thành quả vật chất và đời sống duy vật, nên việc thực hành
đạo đức là một thử thách rất lớn lao.
Tôi muốn kết
thúc bài viết bằng việc suy tư về một tấm hình mà người bạn đã
chuyển cho tôi qua facebook. Trong tấm hình vẽ một người giầu có
hai tay sách những vali đầy tiền đang tiến về ngôi mộ của mình.
Đứng đón ông là thần chết, và vị thần chỉ tay về phía chiếc
thùng chất đầy tiền (có lẽ của những người đã đi trước), và nói:
“Tiền để lại đây. Khi chết chỉ được mang theo TỘI, PHÚC mà
thôi!”.
________
Tham khảo:
1. https://www.khon2.com ›
local-news › new-study-reveals...
2. Trích
dẫn từ Lục Vân Tiên của Wikipedia, Bách khoa Toàn thư Mở.
3. https://vi.wikipedia.org ›
wiki › Lịch_sử